Lao da (bìu) là kết quả của sự lan rộng trực tiếp của một bệnh lao (ví dụ, hạch bạch huyết khu trú, xương hoặc khớp bị nhiễm bệnh) sang vùng da phía trên, tạo thành các vết loét và xoang. lao da là kết quả của sự lan truyền máu hoặc lympho đến da từ một tập trung ngoài da ở một bệnh nhân nhạy cảm.
Bệnh lao verrucosa cutis (mụn cóc) xảy ra sau khi tiêm trực tiếp mycobacteria vào da của một bệnh nhân nhạy cảm trước đây có miễn dịch trung bình và cao chống lại trực khuẩn.
Hiếm khi, TB phát triển trên da bị trầy xước ở bệnh nhân lao phổi.
Các khớp lớn thường gặp nhất, nhưng xương của cổ tay, bàn tay và khuỷu tay cũng có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt là sau khi bị chấn thương.
Lao cột sống
là nhiễm trùng cột sống, bắt đầu trong cơ xương sống và thường lan sang các đốt sống gần đó, với sự thu hẹp đĩa đệm giữa chúng. Không chữa trị, đốt sống có thể bị phá huỷ, có thể gây ảnh hưởng đến tủy sống. Các triệu chứng bao gồm đau liên tục hoặc tiến triển ở các xương liên quan và viêm khớp mãn tính hoặc bán cấp (thường là một khớp). Trong bệnh Pott, chèn ép tủy sống gây ra các khuyết tật về thần kinh, bao gồm liệt nửa người; sưng đốt sống có thể do áp xe.
Bởi vì toàn bộ niêm mạc đường tiêu hoá chống lại sự xâm nhập của bệnh lao, nhiễm trùng đòi hỏi phơi nhiễm kéo dài và lượng chất cấy lớn. Điều này rất bất thường ở những quốc gia hiếm khi mắc bệnh lao ở bò (ví dụ như vì quá trình tiệt trùng sữa và xét nghiệm lao thường quy cho gia súc).
Loét miệng và miệng thực quản có thể phát triển từ ăn M. bovis-sản phẩm sữa nhiễm độc; tổn thương ban đầu cũng có thể xảy ra ở ruột non. Sự xâm lấn của ruột thường gây tăng sản và hội chứng viêm ruột với đau, tiêu chảy, tắc nghẽn, và đại tiện ra máu. Nó cũng có thể bắt chước viêm ruột thừa. Có thể loét và rò.
Nhiễm trùng gan thường gặp ở những bệnh nhân lao phổi tiến triển và lao phổi phổ biến hoặc lao kê. Tuy nhiên, gan thường lành mà không để lại di chứng khi điều trị nhiễm trùng chính. Lao trong gan đôi khi lan tới túi mật, dẫn đến vàng da tắc nghẽn.
Bệnh lao có thể nhiễm vào thành mạch máu và thậm chí đã làm vỡ động mạch chủ. Tổn thương tuyến thượng thận, dẫn đến bệnh Addison, trước đây rất phổ biến nhưng hiện nay rất hiếm. Vi khuẩn tubercle có thể lan tới vỏ bọc gân (viêm bao hoạt dịch do lao) bằng cách mở rộng trực tiếp từ các tổn thương lân cận trong xương hoặc theo máu từ bất kỳ cơ quan bị nhiễm bệnh nào.
-
Nhuộm acid nhanh, phân tích dưới hiển vi và nuôi cấy tìm vi khuẩn từ đờm và các mô, và nếu có thể, xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAAT)
-
-
Test trên da bằng tuberculin (TST) hoặc test giải phóng gamma interferon (IGRA)
Thử nghiệm tương tự như đối với lao phổi (xem Chẩn đoán lao), bao gồm chụp X-quang ngực, TST hoặc IGRA, và phân tích dưới kính hiển vi (với sự nhuộm thích hợp) và nuôi cấy của các vi khuẩn không điển hình chất dịch cơ thể bị ảnh hưởng (dịch não tuỷ, nước tiểu, dịch màng phổi, màng ngoài tim, hoặc khớp) và mô cho vi khuẩn mycobacteria. Kết quả nuôi cấy máu là tích cực ở khoảng 50% số bệnh nhân lao phổi lan toả ; những bệnh nhân này thường bị suy giảm miễn dịch, thường do nhiễm HIV. Tuy nhiên, soi và nuôi cấy dịch cơ thể và mô thường âm tính vì ít vi khuẩn trong trường hợp này, NAAT có thể hữu ích.
NAAT có thể được thực hiện trên các mẫu chất lỏng hoặc sinh thiết và trên mô cố định (ví dụ, nếu không nghi ngờ lao trong quá trình phẫu thuật và nuôi cấy không được thực hiện). NAAT thường không được phê duyệt để chẩn đoán lao ngoài phổi nhưng thường được sử dụng với hy vọng chẩn đoán sớm vì lý do điều trị nội khoa và sức khỏe cộng đồng, trong khi chờ nuôi cấy. Mặc dù kết quả NAAT dương tính hầu như luôn hỗ trợ chẩn đoán lao, nhưng kết quả âm tính không loại trừ bệnh lao trong hầu hết các trường hợp vì giá trị dự đoán âm tính thường không được biết và có thể phụ thuộc vào quá trình xử lý bệnh phẩm và các yếu tố khác không được chuẩn hóa.
Thông thường, bạch huyết bào có trong dịch cơ thể. Một dấu hiệu rất gợi ý trong dịch não tuỷ là nồng độ glucose < 50% trong huyết thanh và nồng độ protein tăng lên.
Nếu tất cả các xét nghiệm là âm tính và bệnh lao toàn thể vẫn còn là một mối quan tâm, sinh thiết của tủy xương và gan được thực hiện. Nếu nghi ngờ bệnh lao được đánh giá cao dựa trên các đặc điểm khác (ví dụ như u hạt sinh thấy trên sinh thiết, kết quả xét nghiệm da tuberculin hoặc IGRA dương tính cộng với tăng bạch cầu lympho không giải thích được trong dịch màng phổi hoặc dịch não tuỷ), điều trị nên tiến hành mặc dù không thể chứng minh được các vi khuẩn lao.
X-quang ngực và các hình ảnh khác cũng có thể cung cấp thông tin chẩn đoán hữu ích. Chụp X-quang ngực có thể cho thấy dấu hiệu của bệnh lao tiên phát hoặc đang hoạt động; trong lao kê cho thấy hàng nghìn hạch kẽ 2-3 mm phân bố đều cả hai phổi.
Các xét nghiệm hình ảnh khác được thực hiện dựa trên kết quả lâm sàng. Tổn thương bụng hoặc niệu-sinh dục thường cần phải có chụp CT hoặc siêu âm; tổn thương thận thường thấy. Liên quan đến xương khớp cần chụp CT hoặc MRI, MRI thì hay dùng cho bệnh lý cột sống.
TST và IGRA ban đầu có thể âm tính, nhưng xét nghiệm lặp lại sau vài tuần có thể cho kết quả dương tính. Nếu không, cần hỏi chẩn đoán bệnh lao hoặc tìm nguyên nhân gây bệnh (không phản ứng với bất kỳ xét nghiệm da nào).
-
-
Đôi khi sử dụng corticosteroid
-
Điều trị bằng thuốc là phương thức quan trọng nhất và tuân theo các phác đồ và nguyên tắc chuẩn (xem Thuốc bước đầu trong điều trị lao). Sáu đến 9 tháng của liệu pháp có thể phù hợp với hầu hết các vị trí ngoại trừ màng não, cần điều trị từ 9 đến 12 tháng.
Kháng thuốc là mối quan tâm lớn; nó tăng lên bởi sự tuân thủ kém, sử dụng quá ít thuốc, và kiểm tra tính nhạy cảm không đầy đủ.
Corticosteroid thường được sử dụng cho viêm màng não do lao, nhưng Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) không còn khuyến nghị dùng corticosteroid cho viêm màng ngoài tim do lao không co thắt; tuy nhiên, corticosteroid có thể ngăn chặn sự co thắt ở những bệnh nhân có nguy cơ. Corticosteroid có thể được sử dụng cho viêm màng não và viêm màng ngoài tim do lao (ngay cả khi không co thắt) ở những bệnh nhân có hội chứng viêm phục hồi miễn dịch.
Phẫu thuật được chỉ định cho những điều sau đây:
-
Để làm dẫn lưu mủ chèn ép tim hoặc áp xe hệ thần kinh trung ương
-
-
Cắt bỏ đoạn ruột nhiễm trùng
-
Để giải phóng chèn ép tuỷ
Đôi khi phẫu thuật giải áp cần thiết trong bệnh Lao cột sống để điều chỉnh các dị tật cột sống hoặc để giải ép dây nếu có sự chén ép thần kinh hoặc đau kéo dài; việc làm vững cột sống bằng ghép xương là cần thiết trong những trường hợp tiên tiến nhất. Phẫu thuật thường không cần thiết cho lao hạch ngoại trừ mục đích chẩn đoán.
-
Bệnh lao có thể lây lan từ phổi qua dòng máu tới nhiều vị trí.
-
Các triệu chứng phụ thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng nhưng thường bao gồm sốt, khó chịu, và giảm cân.
-
Chẩn đoán dựa vào xác định vi khuẩn lao trong dịch hoặc mô và hoặc nuôi cấy xét nghiệm khuyêch đại acid nucleic.
-
Điều trị bằng nhiều loại thuốc trong nhiều tháng và đôi khi với giải phẫu.
-
Kháng thuốc là một mối quan tâm lớn.